Phác thảo hệ thống dự báo động đất

Các nhà khoa học Nasa đã thành lập một đội chuyên gia ở Anh để kiểm tra kỹ hơn hệ thống báo động sơ khai trong không gian. Rất nhiều người trong giới khoa học vẫn tỏ ra nghi ngờ liệu những dấu hiệu đó có thực sự chứng tỏ động đất sắp xảy đến hay không.

Nhưng Minoru Freund – nhà vật lý học, đồng thời cũng là giám đốc phòng nguyên liệu, thiết bị không gian tối tân tại Trung tâm nghiên cứu Ames của Nasa ở California – “Tôi hoàn toàn tin tưởng chúng tôi có khả năng thiết lập 1 mối liên hệ rõ ràng về dấu hiệu nhận biết các trận động đất sắp diễn ra theo cách an toàn”.

Qua nhiều năm nghiên cứu, hiện nay vẫn chưa có phương pháp đáng tin cậy phỏng đoán về thời gian sắp diễn ra động đất. Tuy thế, hầu hết các nhà khoa học đều đồng ý rằng một vài mô hình hệ thống báo động có thể cứu thoát hàng nghìn người.

Những cảnh báo sớm

Một nghiên cứu do Trung tâm Không gian và nghiên cứu từ xa của Đài Loan đã được tiến hành trên 100 vụ động đất 5.0 richter hoặc lớn hơn xảy ra ở nước này trong vài thập kỷ qua. Các nhà nghiên cứu nhận thấy hầu hết các trận động đất gây chấn động sâu tới 35km đều liên quan tới các chấn động điện trên tầng điện ly trước đó.
Tầng điện ly phân biệt với các tầng khác của khí quyển trái đất, bởi nó tích điện thông qua bức xạ mặt trời. Các vệ tinh có thể bắt được các chấn động trong phạm vi 100-600 km xung quanh các khu vực sắp xảy ra động đất. Điều quan trọng nhất là có sự dao động về mức độ dày đặc các electron và các hạt tích điện trong tầng điện ly.

Các nhà khoa học cũng đã quan sát thấy một dấu hiệu lớn trên tầng điện ly trước trận động đất 7.8 richter tại Trung Quốc vào ngày 12/05/2008 vừa qua.

Một đội nghiên cứu của Nasa cũng đang làm việc với công ty TNHH Công nghệ vệ tinh Surrey (SSTL) tại Anh để điều tra tính khả thi của hệ thống báo động bằng vệ tinh. Họ hy vọng các máy dự báo động đất sẽ hỗ trợ hệ thống trên. 

 “Các bình ắc quy đá”

Minoru và cha ông – Friedemann Freund đều xuất thân từ Trung tâm nghiên cứu Ames của Nasa  – đã phát triển học thuyết khoa học đằng sau những dự báo về động đất xuất phát từ ý tưởng khi các viên đá cọ xát vào nhau, vì chúng hoạt động giống bình ắc quy sản xuất ra dòng điện.

Theo học thuyết của họ, vật mang điện là 1 ”lỗ dương”, có thể di chuyển. Khi chúng di chuyển đến bề mặt Trái đất, vì bề mặt tích điện dương, khi dòng điện đủ lớn nó sẽ ảnh hưởng đến tầng điện ly gây nên các chấn động giống như dữ liệu từ vệ tinh cung cấp.

Khi các vật mang điện kết hợp với nhau trên bề mặt Trái đất, chúng tham gia vào một trạng thái”sôi động”. Chúng phát ra các hạt ánh sáng hồng ngoại hoặc hạt photon (hay còn gọi là quang tử). Điều này giải thích các quan sát về hồng ngoại.

Theo Tiến sỹ Mike Blanpied, một nhà địa vật lý tại Trung tâm khảo sát địa lý Mỹ (USGS), “Tại thời điểm này, liên hệ giữa các hiện tượng về học thuyết của Minoru và cha ông – Friedemann trong phòng thí nghiệm và diễn biến thực tiễn trên trái đất vẫn chưa được chứng minh và nó vẫn đang được nghiên cứu”.

Ông đưa ra 2 điểm phản bác lại nghiên cứu trên. Đầu tiên, ông cho rằng các thí nghiệm được thực hiện trên cạn hay dưới nước thì đã đều chịu áp suất và nhiệt độ trong phòng. Nhưng ở trong vỏ Trái đất, khoảng trống giữa các tầng đã bị lấp bởi các dung dịch khoáng và bị ảnh hưởng bới áp suất và nhiệt độ cao. Thứ 2, theo giả thiết trên, sẽ có những thay đổi nhanh chóng về sức căng trên vỏ quả đất bắt đầu một vài ngày trước khi có động đất.

Tiến sỹ Blanpied sống tại Reston, Virginia, Mỹ đã nói rằng, ông chưa từng quan sát thấy sự thay đổi sức căng nhanh chóng trước một trận động đất, điều này có nghĩa là những chấn động dự báo phải rất nhỏ để có thể phát hiện ra.

Minoru Freund cũng đồng ý rằng công việc cần phải được cải thiện về mặt học thuyết và một vài dữ liệu. Nhưng ông cũng cho biết, ông đã lập kế hoạch để tiến hành dự án về một hệ thống cảnh báo động đất sớm trên không gian có những chi phí thấp và dựa trên ít nhất 3 vệ tinh.


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *